Di sản có giá trị tuyệt đối trong phát triển du lịch và con đường di sản Miền Trung là nơi tập trung 5 trong 7 các di sản thể giới của Việt Nam được tổ chức thể giới UNESCO công nhận bao gồm: Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, Đô thị cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Phong Nha Kẻ Bàng.
Lấy yếu tố văn hóa đề làm đề tài cho các tuyến điểm du lịch trên con đường di sản Miền Trung nhằm hướng đến khai tác du lịch theo chiều sâu hơn và bền vững.
Những quan hệ mật thiết giữa văn hóa và du lịch: Nếu du lịch mà thiếu văn hóa thì chắc rằng du lịch đó sẽ không phát triển và đồng thời văn hóa hỗ trợ để du lịch được phát triển tròn trịa hơn.
Có thể nói, văn hoá chính là tài nguyên hấp dẫn và tiềm tàng của ngành du lịch. Những tài nguyên văn hoá thiên nhiên như động Phong Nha, vịnh Hạ Long ở Việt Nam… đã lôi cuốn du khách bởi vẻ đẹp hoang sơ và kỳ bí của chúng. Các tài nguyên văn hoá phi vật thể như Nhã nhạc cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên đã khiến du khách rất ngạc nhiên, thích thú khi thưởng thức. Những tài nguyên văn hoá như cố đô Huế, đô thị cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn… đã và đang khiến du khách đến với miền Trung.
Việt Nam có một bề dày về lịch sử văn hóa. Văn hóa Việt Nam mang một bản sắc riêng. Du khách đến Việt Nam bị hấp dẫn trước một nền văn hoá đa tộc người cùng với các loại hình mỹ thuật, kiến trúc, âm nhạc dân tộc, sân khấu dân tộc, lễ hội, nghệ thuật ẩm thực…
Tuy cùng có liên quan đến hai khái niệm văn hoá và du lịch, nhưng “văn hóa du lịch” và “du lịch văn hóa” là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Nếu như văn hoá du lịch được xem như là tổng thể phức hợp của nhiều hiện tượng, giá trị văn hoá thông qua hoạt động du lịch, thì du lịch văn hoá chỉ đơn thuần là một loại hình du lịch nhằm phục vụ cho một đối tượng rõ ràng, đó là những du khách có nhu cầu khám phá và học hỏi về văn hoá.
Miền Trung từng được biết đến như là một dải đất cơ cực, nghèo khó nhưng so với các vùng miền khác trong cả nước, các tỉnh miền Trung, mà cụ thể là Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam và Đồng Hới đang nắm giữ nhiều lợi thế về du lịch. Điểm nổi bật là ở khu vực này có đến 3 di sản văn hóa vật thể, 1 di sản văn hóa phi vật thể và lại nằm kề di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha – Kẻ Bàng.
Sự liên kết văn hóa trong du lịch của Con đường di sản Miền Trung gồm nhiều giá trị di sản văn hoá của nhân loại và không gian của con đường ấy trải dài trên các vùng văn hoá khác nhau: văn hóa Huế, văn hóa Quảng Nam, và chính là điểm độc đáo nhất về phương diện văn hoá mà sản phẩm du lịch có thể mang lại cho miền Trung.
- Vùng văn hoá Huế: Đây là một không gian văn hoá rất đặc sắc trên “Con đường di sản văn hoá miền Trung”. Tính đặc sắc của văn hoá Huế được thể hiện bởi sự kết hợp tinh tế và hài hoà của hai bộ phận văn hoá dân gian và văn hoá cung đình. Nhưng nếu xét từ tổng thể, thì có thể xem đó là một vùng văn hoá mang đậm dấu ấn cung đình bác học.
- Vùng văn hóa Quảng Nam: Đây chính là vùng đất nằm trong địa thế giằng co về mặt lãnh thổ trong một thời gian dài giữa Đại Việt và Champa.
Nếu như văn hoá Huế là loại văn hoá cung đình thì văn hoá Quảng Nam mang tính dân gian nhiều hơn. Hai điểm nhấn đặc biệt của văn hoá Quảng Nam chính là phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn. Nếu như Mỹ Sơn mang trong mình sự trầm mặc và bí ẩn của nền văn hoá Champa thì Hội An chính là cánh cửa mở toang ra thế giới bên ngoài. Nhờ sự mở cửa thông thoáng đó của các chúa Nguyễn nên những kiều dân Nhật Bản và Trung Quốc đã chọn Hội An làm quê hương thứ hai của mình. Chính việc hình thành những cộng đồng đó đã tạo ra những nét đặc sắc của Hội An trong suốt chiều dài lịch sử của phố Cảng. Thời điểm hưng thịnh nhất của phố cổ không chỉ có cộng đồng người Nhật và người Hoa sinh sống, buôn bán mà còn có các sắc dân từ đủ mọi quốc gia như Ý, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha vv… sau đó đã đến đây để mua bán và truyền giáo. Trong một môi trường mang tính quốc tế như vậy, quá trình giao lưu văn hoá đã được hình thành và phát triển, làm cho sắc thái văn hoá của Hội An ngày càng trở nên phong phú và đa dạng.
Xét từ góc độ văn hoá cho đến tính khả thi của hiệu quả kinh tế do các hoạt động du lịch mang lại thì con đường di sản miền Trung có tính khả thi rất cao.
Điểm tựa quan trọng nhất của sản phẩm “Con đường di sản miền Trung” vẫn là những di sản văn hoá mang tính nhân loại tồn tại ở địa phương. Nên có kế hoạch bảo tồn và giữ gìn nghiêm túc những tài sản vô giá này để có thể khai thác lâu dài, tránh tình trạng quá chú trọng đến vấn đề phát triển kinh tế mà lãng quên văn hoá. Nếu không làm đựơc điều đó thì một ngày không xa chúng ta sẽ phải trả giá thật đắt. Di sản văn hoá không chỉ đơn thuần là những hiện vật thuộc về quá khứ, thuộc về lịch sử mà thực ra di sản văn hoá còn gắn liền với đời sống hiện tại và nối liền với tương lai. Bảo tồn di sản văn hoá là một việc đáng làm nhưng bảo tồn các di sản văn hoá sao cho hiệu quả là một vấn đề hoàn toàn toàn không đơn giản. Tại Việt Nam, ở các địa phương có di sản văn hoá đều đưa ra khẩu hiệu và quyết tâm bảo tồn di sản văn hoá, nhưng bảo tồn tới đâu và bảo tồn như thế nào cho hiệu quả thì lại đang là một vấn đề gây ra nhiều tranh cãi và lúng túng.
Xét về mặt tốt đẹp của vấn đề, du lịch đã khiến cho nhiều địa phương thoát cảnh đói nghèo và thất nghiệp. Trước thời mở cửa, nhìn chung tình hình kinh tế ở các địa phương miền Trung. Khi nước nhà mở cửa, kinh tế phát triển trông thấy và rõ ràng là ngành du lịch đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển này.
Việc du khách đến tham quan các địa phương có di sản đã tạo ra những ảnh hưởng nhất định trên các phương diện của đời sống cư dân địa phương như kinh tế, văn hoá – xã hội và cảnh quan môi trường là một thực tế khó phủ nhận. Ví dụ điển hình nhất là trường hợp của Huế. Qua những kì Festival, người dân cùng với ngành du lịch và văn hoá Thừa Thiên – Huế đã giới thiệu tương đối thành công hai di sản văn hoá của mình đến với toàn thể du khách. Festival 2008 năm nay, người Huế đã đưa ra khẩu hiệu “Festival là cơ hội để phát huy và quảng bá di sản văn hoá Huế”. Nhưng làm du lịch mà không tàn phá môi sinh, không làm hư hỏng di sản văn hoá đã là khó. Làm du lịch để vừa bảo tồn vừa phát huy được di sản văn hoá mà vẫn đảm bảo mục tiêu kinh tế thì lại càng khó hơn.
Ngoài những du khách có văn hoá cao, cư xử đúng mực đối với các di sản văn hoá, vẫn còn không thiếu những du khách với nhận thức còn yếu kém, đã có những hành động thiếu tôn trọng với những vùng đất mà họ đặt chân đến. Những việc làm không mong đợi từ phía du khách thường thể hiện qua rất nhiều hành vi. Ví dụ như việc chụp hình bất kỳ một người địa phương nào mà không hề xin phép họ, điều này đôi khi cũng phát sinh ra nhiều thực tế phiền toái. Những hành vi biểu hiện sự thân mật quá mức giữa các du khách phương Tây ở những nơi công cộng cũng gây ra không ít điều khó chịu cho dân địa phương.
Những phiền toái và ảnh hưởng tiêu cực do một bộ phận du khách gây ra không chỉ dừng lại ở đó. Đôi khi, có những du khách còn có thái độ và hành vi nhằm mục đích làm tầm thường hoá ý nghĩa nhân văn của khu di sản. Điều này thường được thể hiện qua việc ăn mặc quá “mát mẻ” khi đến những thánh tích tôn giáo thiêng liêng mà người dân địa phương sùng kính. Việc làm này dù cố ý hay không cũng dễ làm thương tổn tâm lý của cư dân địa phương. Cũng có một số bộ phận du khách thường xuyên lấy cắp những di vật ở các di tích văn hoá, thậm chí có những du khách còn cố ý phá hoại những di tích này.
Ngành văn hóa cần giúp ngành du lịch bằng cách tổ chức tốt các lễ hội, các chương trình văn nghệ (chú ý các loại hình nghệ thuật cổ truyền của dân tộc, của địa phương) phục vụ du khách, làm cho các di tích, các giá trị văn hóa trở thành lực hấp dẫn du khách, trở thành điểm đến thân thiện, thoải mái; phối hợp với các cấp chính quyền giáo dục văn hóa ứng xử, văn hóa du lịch cho cư dân địa phương.
Ngành văn hóa cũng cần giúp ngành du lịch trong công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch bằng các phương tiện truyền thông đại chúng hùng mạnh của mình., phối hợp tốt với ngành du lịch trong việc tổ chức các sự kiện, các lễ hội du lịch lớn.
Ngành văn hóa cần giúp cho cán bộ nhân viên của mình nhận thức rõ rằng nhờ du lịch mà ngành có thể thực hiện tốt chức năng giáo dục, tổ chức, động viên nhân dân của văn hóa, làm cho di sản văn hóa không “nằm im trong tủ kính”, trong bảo tàng, trong các di tích rêu phong mà trở nên sống động trong đời sống đương đại. Đó là cách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa có hiệu quả cao.
Về phía ngành du lịch, trước tiên cần giáo dục cán bộ nhân viên nhận thức rõ vai trò, vị trí của văn hóa với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển xã hội nói chung, của sự phát triển du lịch nói riêng.
Du lịch không chỉ là một hoạt động kinh tế mà còn là một hoạt động văn hóa. Cần khai thác hợp lý và có hiệu quả tài nguyên du lịch nhân văn, biến các di sản, các giá trị văn hóa thành các sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Ngành du lịch cần trích một phần lợi nhuận của mình góp vào quỹ bảo tồn, tôn tạo các di tích, các giá trị văn hóa đang còn ít ỏi. Làm như vậy cũng là tự giúp du lịch phát triển bền vững.
Ngành du lịch cần thường xuyên, giáo dục, trang bị văn hóa du lịch cho mọi người tham gia hoạt động du lịch, nhất là cho đội ngũ hướng dẫn viên. Đối với hướng dẫn viên, cần cung cấp cho họ kiến thức cụ thể về văn hóa dân tộc, văn hóa thế giới, nội dung và ý nghĩa của các giá trị văn hóa ở tuyến điểm du lịch, nơi du khách tới tham quan. Trên một ý nghĩa nhất định, hướng dẫn viên cũng là nhà ngoại giao, là đại sứ văn hóa của dân tộc. Hướng dẫn viên cần phải làm cho du khách cảm thấy thích thú và thực sự thoả mãn khi tham gia vào tour du lịch. Quy luật phục vụ du khách cũng không nằm ngoài khái niệm cung – cầu. Du khách bỏ tiền ra để đi du lịch, khi được đáp trả bằng sự ân cần và nồng nhiệt, được mở rộng tầm nhìn và kiến thức văn hoá thì chắc chắn là họ sẽ hài lòng.
Chính quyền địa phương và các doanh nghiệp du lịch cũng cần tuyên truyền ý thức, trách nhiệm bảo vệ văn hoá và môi trường cho du khách thông qua chính đội ngũ hướng dẫn viên du lịch.
Nhiệm vụ của người hướng dẫn viên du lịch trong vai trò bảo vệ và phát huy di sản văn hoá là hết sức quan trọng. Bởi vì, hướng dẫn viên du lịch là những người gần gũi nhất với du khách, họ chính là chiếc cầu nối cảm thông giữa du khách với một môi trường văn hoá xa lạ. Chính họ sẽ cung cấp những thông tin, những luật lệ về bảo tồn di sản văn hoá đối với du khách, giải đáp cho du khách nhiều điều thắc mắc. Những động thái có trách nhiệm như vậy của những người làm công tác du lịch sẽ khiến cho du khách ý thức hơn về những hành vi của mình đối với môi trường xã hội và môi trường văn hoá mà du khách tham quan.
Sản phẩm du lịch Con đường di sản thế miền Trung được khởi đầu như một ý tưởng du lịch táo bạo và mới mẻ. Sản phẩm du lịch này dựa trên sự đặc sắc của các vùng văn hoá và nhấn mạnh vào tính liên kết giữa những vùng văn hóa ấy với nhau.
Con đường di sản Miền Trung Việt Nam nằm trên một vùng đất có bề dày lịch sử – văn hoá. Khai thác được những nét độc đáo và tiềm năng văn hoá dồi dào ấy thông qua hoạt động du lịch để phát triển kinh tế chính là một trong những vấn đề quan trọng của du lịch miền Trung trong hiện tại và tương lai.





